SKKN Áp dụng quan điểm lấy trẻ làm trung tâm phát triển vốn cho trẻ 4-5 tuổi trong trường mầm non

Trẻ mẫu giáo có nhu cầu rất lớn về mặt nhận thức, trẻ khao khát được tìm hiểu khám phá thế giới xung quanh mình trong đó có ngôn ngữ là công cụ của tư duy. V.I Lê nin nói: “ Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người”, sống trong xã hội con người luôn luôn phải giao tiếp. Khi giao tiếp phải sử dụng vốn từ để biểu đạt với những người xung quanh. Theo tinh thần đổi mới đã được nêu trong nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách giáo dục lần thứ III ( 1979 ) để nâng cao chất lượng nuôi dạy trẻ cần phải phát triển vốn từ đặt nền móng đầu tiên hình thành và phát triển ngôn ngữ tạo tiền đề cho trẻ bước vào những lớp cao hơn.Giáo dục mầm non với vị trí là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân mà phát triển vốn từ cho trẻ là hết sức quan trọng, là một hoạt động tân lý mà ở đó có một hoặc nhiều chủ thể cùng tham gia hoạt động mà ngôn ngữ mới hình thành được các chức năng.
docx 17 trang skmamnon 06/12/2024 130
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Áp dụng quan điểm lấy trẻ làm trung tâm phát triển vốn cho trẻ 4-5 tuổi trong trường mầm non", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Áp dụng quan điểm lấy trẻ làm trung tâm phát triển vốn cho trẻ 4-5 tuổi trong trường mầm non

SKKN Áp dụng quan điểm lấy trẻ làm trung tâm phát triển vốn cho trẻ 4-5 tuổi trong trường mầm non
 5. Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu
Vì thời gian nghiên cứu không nhiều .Rất mong sự đóng góp của Ban giám hiệu, hội 
đồng thi đua của nhà trường để tôi có được những biện pháp hoàn thiện hơn, thiết 
thực hơn
 PHẦN 2- GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
 2 .1. Cơ sở lý luận
Trẻ mẫu giáo có nhu cầu rất lớn về mặt nhận thức, trẻ khao khát được tìm hiểu khám 
phá thế giới xung quanh mình trong đó có ngôn ngữ là công cụ của tư duy.
V.I Lê nin nói: “ Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người”, 
sống trong xã hội con người luôn luôn phải giao tiếp. Khi giao tiếp phải sử dụng vốn 
từ để biểu đạt với những người xung quanh.
Theo tinh thần đổi mới đã được nêu trong nghị quyết của Bộ chính trị về cải cách 
giáo dục lần thứ III ( 1979 ) để nâng cao chất lượng nuôi dạy trẻ cần phải phát triển 
vốn từ đặt nền móng đầu tiên hình thành và phát triển ngôn ngữ tạo tiền đề cho trẻ 
bước vào những lớp cao hơn.Giáo dục mầm non với vị trí là bậc học đầu tiên trong 
hệ thống giáo dục quốc dân mà phát triển vốn từ cho trẻ là hết sức quan trọng, là một 
hoạt động tân lý mà ở đó có một hoặc nhiều chủ thể cùng tham gia hoạt động mà 
ngôn ngữ mới hình thành được các chức năng:
 • Chức năng giao lưu
 • Chức năng truyền đạt, tiếp thu, ghi nhận.
 • Dựa vào thuyết vùng phát triển của Vưgotski thì các tiền đề của các cơ quan 
 sinh lý, sự phát triển trưởng thành của các cơ quan sinh lý, sự phát triển, 
 trưởng thành và chin muồi của các cơ quan sinh lý là tiền đề của việc phát 
 triển vốn từ cho trẻ: 
 • Đặc điểm bộ máy phát âm
 • Cơ quan thính giác các vùng miền bộ não.
 • Vốn từ của những người xung quanh trẻ và môi trường giáo dục là điều kiện 
 để phát triển vốn từ. Trẻ giao tiếp với những người xung quanh, học qua 
 bạn, cha mẹ, người thân, thầy cô.
 • Vốn từ được cấu tạo từ các hệ thống đó là âm thanh, ngữ nghĩa. Nó phụ 
 thuộc và các thành tố: 
 • Phát âm: hệ thống âm thanh của từ.
 • Ngữ nghĩa: ý nghĩa của từ.
 • Ngữ pháp: gồm cú pháp ( quy luật mà từ được liên kết trong câu ) và hình 
 thái là cách sử dụng các quy luật ngữ pháp để biểu đạt. Bảng 1: Kết quả đánh giá giờ hoạt động khám phá của trẻ trước khi làm thực 
 nghiệm (Tổng số trẻ là 52): 
 Kết quả
 STT Nhận thức của trẻ về thế giới xung Số lượng Tỷ lệ %
 quanh
 1 Loại tốt 8 15.3
 2 Loại khá 18 34.6
 3 Loại TB 22 42.3
 4 Loại yếu 4 7.6
 Từ kết quả như trên, tôi luôn băn khoăn suy nghĩ tìm nhiều biện pháp để hoạt 
 động khám phá môi trường xung quanh đạt hiệu quả cao hơn. Từ đó nâng dần 
 khả năng quan sát, so sánh và phân loại cho trẻ, làm phong phú biểu tượng về 
 môi trường xung quanh trong mỗi trẻ.
 PHẦN 3: BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN VỐN TỪ
• Căn cứ vào lý luận và thực tiễn có một số biện pháp giúp trẻ phát 
 triển vốn thông qua hoạt động khám phá xung quanh nhsau:
 1.Thường xuyên cho trẻ tiếp xúc với đồ vật, đồ chơi, tranh ảnh
• Khi tiếp xúc người lớn cần gợi ý cho trẻ nêu tên, đặc điểm, cấu tạo. 
 2. Cô, mẹ và người thân luôn luôn trò chuyện với trẻ.
 Hình thành ở trẻ các từ, các khái niệm, các kí hiệu tượng trưng của sự vật, 
 hiện tượng 
 Ví dụ: a) Quả chuối màu gì? Quả chuối có hình dáng như thế nào? Quả 
 chuối có vị gì?
 b)Con hổ kêu như thế nào?
 Con hổ sống ở đâu?
 Con hổ thích ăn gì?
 c) Trong bức tranh này cô giáo đang làm gì?
 Các bạn nhỏ trong tranh đang làm gì?
 Bác sĩ đang làm gì?
 Con gà trống đang làm gì?
• Người lớn cần nêu các câu hỏi để phát triển vốn từ cho trẻ như: 
 + Đây là cái gì?
 + Nó có màu gì? + Đây là con gì?
 + Nó kêu như thế nào?
 Bước 2: Cho trẻ tri giác từng con vật và nêu đặc điểm 
 Phát cho mỗi trẻ một con vật và hỏi:
 + Đây là con gì?
 + Nó có những bộ phận gì?
 + Màu lông của nó như thế nào?
 + Nó kêu như thế nào?
 + Nó thích ăn gì?
 + Nó đẻ trứng hay đẻ con?
• Cho trẻ so sánh giữa con gà và con chó 
 + Giống nhau: Đều là con vật nuôi trong gia đình.
 + Khác nhau:
 Con gà
 Con chó
 - Gà có hai chân, lông màu vàng tía
 - Gà kêu cục ta cục tác, ò ó o
 - Gà ăn thóc
 - Gà đẻ trứng
 - Chó có bốn chân, lông màu đen
 - Chó sủa Gâu! Gâu!
 - Chó ăn cơm, thức ăn
 - Chó đẻ con
• Trò chơi: Con gì biến mất? 
 + Luật chơi; Ai nói sai tên con vật thì hát bài hát tên một con vật.
 + Cách chơi: Cô bày các con vật trên bàn ( 5 con khác nhau)
 Trẻ gọi tên con vật mà cô cất dần đi.
• Trò chơi chiếc túi kì lạ 
 + Luật chơi: Ai lấy nhầm con vật phải nhảy lò cò
 + Cách chơi: Cô miêu tả con vật rồi cho trẻ thò tay vào túi lấy con vật đó mà 
 không nhìn vào túi. Lấy xong gọi to tên con vật đó.
 Bước 3: Luyện tập:
• Cô hướng dẫn trẻ cách chăm sóc các con vật nuôi trong gia đình.
• Củng cố giáo dục: 
 + Chúng mình vừa làm quen các con vật nào? + Cô cho trẻ xếp thành hai tổ thi đua với nhau. Lần lượt từng trẻ bật qua 5 ô 
 vòng thể dục để đưa các con thú về rừng. Đến đích trẻ nói to tên con thú, 
 tiếng kêu của con thú mà mình vừa chuyển.
 Kết thúc cô cho trẻ cùng đếm số con vật đã về rừng của hai đội, đội nào 
 nhiều con thú hơn sẽ là đội chiến thắng.
 * Trò chơi 1: “Bắt cá” 
 Sử dụng trong các tiết: Một số con vật nuôi trong gia đình (gia cầm, gia súc, 
 vật nuôi nói chung)
• - Chuẩn bị: Cá, bể nước nông, chậu cá
 - Cách chơi: Cho trẻ xuống bể bắt cá trong một thời gian là một bản nhạc, 
 bạn nào bắt được nhiều cá hơn thì bạn ấy chiến thắng. 
 - Luật chơi: Thi xem ai bắt được nhiều cá hơn thì bạn ấy chiến thắng. 
 - Nhận xét sau khi chơi: Sau khi trẻ bắt được cá cô hỏi bạn bắt được 
 nhiều cá bí quyết để bắt được cá và cho trẻ quan sát nhận xét con cá vừa bắt 
 được.
 * Trò chơi 2: “Làm bè trôi trên song”
 Sử dụng trong tiết: khám phá khoa học “ vật nổi, vật chìm trong nước”
 - Chuẩn bị: Dọc mùng, Que xiên, chậu hoặc bể nước nhỏ
 - Cách chơi: Chia làm hai đội, số lượng trẻ ở mỗi đội bằng nhau. Chia 
 làm hai vòng: 
 + Vòng 1: “Ai khéo hơn ai” 
 Khi có hiệu lệnh chơi trẻ làm những chiếc bè trong một thời khoản 
 thời gian đội nào làm được nhiều hơn thì đội đó chiến thăng vòng 1.
 + Vòng 2: “Đội nào nhanh hơn”
 Sau khi làm xong bè,hai đội về hai hang và thi đua xem đội nào thả 
 được nhiều bè hơn thì đội đó chiến thắng trong vòng 2
 - Luật chơi: Chơi theo luật tiếp sức, đội nào thả đươc nhiều bè hơn thì 
 đội đó dành chiến thắng.
 * Trò chơi 3: “Hội thi trồng rau” sử dụng trong giờ: Một số loại rau 
 - Chuẩn bị: Một số loại rau ăn lá, rau ăn củ, rau ăn quả; 2 luống cây.
 - Cách chơi: Chia trẻ làm 2 đội, nhiệm vụ của mỗi đội phải chọn loại rau cô 
 yêu cầu trồng đúng vào luống rau mà cô đã quy định. Thời gian chơi là 1 
 bản nhạc. Đội nào trồng được nhiều rau đúng yêu cầu hơn đội đó chiến 
 thắng. – Trò chơi: “Gánh lúa qua cầu”
+ Cách chơi: Cho trẻ đứng thành hai hàng ngang. Lần lượt từng trẻ gánh 
quang gánh có đựng lúa đi qua ghế thể dục. Ai ngã khỏi cầu, làm rơi lúa 
phải ra ngoài một lần chơi.
Trẻ đứng ở 2 hàng cổ vũ cho bạn và đọc đồng dao do cô sáng tác:
 Gánh lúa qua cầu Lon ton, lật đật
 Bạn trước tôi sau Run rẩy ngã liền
 Gánh lúa cho mau Tự tin, tự tin
 Đổ đầy kho thóc Việc gì cũng dễ
 Tự tin vững bước Nhanh nhanh bạn nhé
 Qua hết cây cầu Gánh về, gánh về
 Chân bước khéo sao Thóc lúa đề huề
 Như trên mặt đất Cả làng no đủ.
6. Tổ chức cho trẻ tham gia các hoạt động trải nghiệm qua các thí nghiệm 
khoa học.
Ngày nay khoa học kỹ thuật đã có những bước tiến quan trọng vì vậy trẻ 
mầm non cũng cần trang bị cho mình những kiến thức bao quát và chính xác 
về các lĩnh vực của tự nhiên và con người là rất cần thiết. Không phải thí 
nghiệm nào cũng là 1 phát minh tuy nhiên không có phát minh nào là không 
có thí nghiệm.Những thí nghiệm nhỏ, đơn giản, dễ tiến hành nhưng lại hiệu 
quả và đem đến cho trẻ những hiểu biết về thế giới xung quanh, từng bước 
trẻ sẽ có điều kiện để suy nghĩ, khám phá những bí ẩn của cuộc sống. Dưới 
đây là một số thí nghiệm tôi đã tiến hành và kết quả thu được ở các con rất 
tốt, trẻ rất hứng thú, say mê.
Thí nghiệm 1: Sự phát triển của cây?
* Mục đích yêu cầu
- Trẻ nhận biết sự phát triển của cây từ lúc gieo hạt đến khi ra quả
* Chuẩn bị
- Hạt đậu; Đất; Cốc đựng đất; Nước 
* Tiến hành
- Cho trẻ quan sát và gọi tên các đồ dùng của cô đã chuẩn bị
- Cô hỏi trẻ khi gieo hạt vào đất thì điều gì xảy ra? Muốn biết điều gì xảy ra 
và có giống chúng mình dự đoán không thì chúng mình hãy cùng chờ đợi và 
hằng ngày quan sát nhé. Tôi tiếp tục đặt tình huống: thế không khí có bắt được không? Có cháu nói 
được, có cháu nói không được.
Tôi hỏi tiếp: làm thế nào để bắt được không khí? Lúc này trẻ đưa ra rất nhiều 
ý kiến: lấy ly, lấy chai, lấy lon, hộp,để bắt không khí.
Tôi phát cho mỗi trẻ một túi nilon và yêu cầu: Hãy lấy và bắt không khí vào túi. 
Mỗi trẻ thực hiện một cách khác nhau: có trẻ nắm bắt không khí xung quanh bỏ 
vào túi, với không khí cho vào túinhưng các cháu vẫn chưa thấy gì trong túi.
Tôi tiếp tục gợi ý: các con hãy làm cách nào để túi phồng to lên đi!-> Trẻ phát 
hiện mình phải thồi hơi vào túi và muốn giữ hơi trong túi phaaari buộc túi lại.
Khi đó tôi giải thích “ không khí đang ở trong túi nilon của các con đấy”
Sau đó tôi cho trẻ chơi trò “ vợt không khí vào túi”
Tiết học sôi nổi, hấp dẫn trẻ hẳn lên và sau đó tôi hướng dẫn trẻ lấy kéo cắt 
túi để thấy không khí xì ra.
Sau giờ khám phá trẻ biết được không khí có ở xung quanh chúng ta, nó có 
mặt ở khắp mọi nơi và con người thở được là nhờ có không khí, nếu thiếu 
không khí con người sẽ không thở được.
7. Cho trẻ tiếp xúc với thiên nhiên thông qua hoạt động tham quan dã ngoại.
Bậc làm cha làm mẹ nào cũng đều muốn con cái mình chăm chỉ học hành, 
học giỏi. Cha mẹ thường không tiếc công sức, tiền bạc để chăm sóc, đầu tư 
cho con cái học hành nên người ngay từ những năm đầu đời của trẻ. Tuy 
nhiên, đặt nhiệm vụ học tập của con cái lên vị trí ưu tiên hàng đầu cũng 
chính là lý do mà cha mẹ nhiều khi không để ý đến hoạt động vui chơi giải 
trí, một trong những hoạt động quan trọng của trẻ.
Các chuyên gia Tâm lý cho rằng, hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo 
của trẻ lứa tuổi mầm non.Là hoạt động mà ở đó trẻ được trải nghiệm, được 
khám phá, thể hiện mình, nhập mình vào vai chơi giống xã hội người lớn. 
Thông qua hoạt động vui chơi trẻ sẽ lĩnh hội được nhiều kỹ năng mới, kinh 
nghiệm và những xúc cảm, tình cảm mới.
Theo nghiên cứu của các chuyên gia, vui chơi giúp tạo ra sự cân bằng giữa 
học tập và thư giãn để trẻ em phát triển tốt cả về tinh thần và thể chất, giữa 
hoạt động trí óc và vận động cơ thể. Không chỉ là hình thức tiêu khiển, vui 
chơi còn góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ sự phát triển trí thông minh, 
cách bày tỏ cảm xúc và kỹ năng giao tiếp của trẻ. Vui chơi là cơ hội tốt để 
trẻ áp dụng những kiến thức trong sách vở, phát huy sáng kiến, chủ động tạo 
ra nhiều tình huống phong phú thông qua cảm nhận từ thực tế. Các hoạt 

File đính kèm:

  • docxskkn_ap_dung_quan_diem_lay_tre_lam_trung_tam_phat_trien_von.docx