Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 4-5 tuổi nâng cao kỹ năng kể chuyện sáng tạo tại Trường mầm non Gia Thượng

Dạy trẻ làm quen văn học, trong đó dạy trẻ kể chuyện sáng tạo nhằm cung cấp một số kỹ năng cho trẻ: đó là khả năng giao tiếp, khả năng nói rõ ràng, mạch lạc, biểu cảm, nói đúng câu có ý nghĩa, phát triển ngôn ngữ ở trẻ. Qua những câu chuyện, những nhân vật trong truyện mà trẻ được kể, được nghe cô kể còn giáo dục đạo đức cho trẻ một cách nhẹ nhàng, thoải mái. Kể chuyện sáng tạo còn là phương tiện giáo dục tri thức cho trẻ phát huy tính tích cực ở trẻ, rèn nếp tư duy sáng tạo cho trẻ ngay từ tuổi ấu thơ.
Đặc điểm tư duy của trẻ 4-5 tuổi chủ yếu là trực quan hình tượng tức là chỉ dựa vào những hình ảnh, những biểu tượng được quan sát trực tiếp, những kinh nghiệm đã trải qua để liên hệ và suy ra cái mới. Chính vì vậy mà kể chuyện sáng tạo xuất phát từ đặc điểm này. Ngoài tư duy trực quan hình tượng là chủ yếu thì trẻ 4-5 tuổi đã xuất hiện tư duy mới đó là tư duy sơ đồ, ở giai đoạn này tình cảm và trí tưởng tượng của trẻ rất phong phú, ngôn ngữ của trẻ rất phát triển. Trẻ có khả năng khái quát sự vật hiện tượng không chỉ ở thuộc tính bên ngoài mà còn cả thuộc tính bên trong, nhưng mức độ khả năng khái quát của trẻ không giống nhau nên tùy thuộc vào sự phát triển của từng trẻ để có phương pháp phù hợp phát triển tính tích cực cá nhân và hướng đến sự phát triển ngôn ngữ hiệu quả nhất cho trẻ.
doc 12 trang skmamnon 06/07/2024 850
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 4-5 tuổi nâng cao kỹ năng kể chuyện sáng tạo tại Trường mầm non Gia Thượng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 4-5 tuổi nâng cao kỹ năng kể chuyện sáng tạo tại Trường mầm non Gia Thượng

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 4-5 tuổi nâng cao kỹ năng kể chuyện sáng tạo tại Trường mầm non Gia Thượng
 MỤC LỤC
 NỘI DUNG Trang
 A. PHẦN MỞ ĐẦU 4
 1. Lý do chọn đề tài 4
 2. Mục đích nghiêmn cứu 4
 3. Đối tượng nghiên cứu 4
 4. Đối tượng khảo sát, thực nghiệm 4
 5. Phương pháp nghiên cứu 4
 6. Thời gian nghiên cứu 4
 B. PHẦN NỘI DUNG 5
 1. Cơ sở lý luận 5
 2. Thực trạng 5
 2.1. Cơ sở vật chất 5
 2.2. Giáo viên 6
 2.3. Phụ huynh 6
 2.4. Trẻ 6
 3. Một số biện pháp 7
 3.1. Biện pháp 1: Khảo sát kỹ năng sống của trẻ. 7
 3.2. Biện pháp 2:Sưu tầm, thiết kế các hoạt động giáo dục kỹ 16
năng sống phù hợp với sự phát triển tình cảm-kỹ năng xã hội của 
trẻ trong lớp.
 3.3. Biện pháp 3: Tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm, thực hành có 20
tính giáo dục và tính tương tác cao
 3.4. Biện pháp 4: Sử dụng các tình huống có vấn đề 22
 3.5. Biện pháp 5: Tuyên truyền phối kết hợp với phụ huynh.
 4. Kết quả đạt được 30
 4.1. Vế phía trẻ 30
 4.2. Về giáo viên 31
 5. Bài học kinh nghiệm 31
 C. PHẦN KẾT LUẬN 32
 1. Kết luận chung 32
 2. Khuyến nghị 32
 0/10 Đặc điểm tư duy của trẻ 4-5 tuổi chủ yếu là trực quan hình tượng tức là chỉ 
dựa vào những hình ảnh, những biểu tượng được quan sát trực tiếp, những kinh 
nghiệm đã trải qua để liên hệ và suy ra cái mới. Chính vì vậy mà kể chuyện sáng 
tạo xuất phát từ đặc điểm này. Ngoài tư duy trực quan hình tượng là chủ yếu thì 
trẻ 4-5 tuổi đã xuất hiện tư duy mới đó là tư duy sơ đồ, ở giai đoạn này tình cảm 
và trí tưởng tượng của trẻ rất phong phú, ngôn ngữ của trẻ rất phát triển. Trẻ có 
khả năng khái quát sự vật hiện tượng không chỉ ở thuộc tính bên ngoài mà còn 
cả thuộc tính bên trong, nhưng mức độ khả năng khái quát của trẻ không giống 
nhau nên tùy thuộc vào sự phát triển của từng trẻ để có phương pháp phù hợp 
phát triển tính tích cực cá nhân và hướng đến sự phát triển ngôn ngữ hiệu quả 
nhất cho trẻ.
II. Thực trạng
 - Trang thiết bị dạy học hiện đại như: máy tính, máy chiếu, thiết bị ghi 
âm... đầy đủ, tuy vậy đồ dùng tự tạo của giáo viên còn hạn chế... nên làm hiệu 
quả giảng dạy, truyền thụ của cô hạn chế và không hấp dẫn, thu hút trẻ ham học 
hỏi, tìm tòi, ít hấp dẫn và không gây hứng thú nhiều cho trẻ.
 - Đội ngũ giáo viên đều được đào tạo, bồi dưỡng đúng nghề nhưng chưa 
thực sự chuyên tâm đầu tư thời gian đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu, thuần thục đặc 
biệt giọng kể của giáo viên còn thiếu diễn cảm, hệ thống câu hỏi cô giáo chuẩn bị 
và đưa ra trong quá trình giảng dạy chưa phong phú, chưa có nhiều kinh nghiệm 
trong việc tạo hứng thú cho trẻ tích cực tham gia kể chuyện sáng tạo, chưa đáp 
ứng được các đối tượng trẻ trong lớp.
 - Trong số phụ huynh, trình độ văn hóa không đồng đều, trong đó rất 
nhiều phụ huynh chưa thấy được vị trí tầm quan trọng của việc bồi dưỡng ngôn 
ngữ cho trẻ, nên thiếu quan tâm đến việc rèn luyện trẻ kể chuyện sáng tạo giúp 
cho trẻ phát triển ngôn ngữ. 
 - Khả năng tiếp nhận, lĩnh hội khác nhau, ngôn ngữ trẻ kể chuyện sáng tạo 
phát triển không đồng đều, do vậy đã ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình tiếp thu 
cách kể chuyện sang tạo. Bảng phân loại đánh giá trẻ đầu năm học về lĩnh vực 
kể chuyện sáng tạo phát triển ngôn ngữ trẻ đạt được cho thấy như sau:
 Tổng số: 46 cháu
 Thường xuyên Thỉnh thoảng Không có
 STT Đánh giá Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ 
 trẻ % trẻ % trẻ %
 1 Hứng thú với KCST 9 20% 22 48% 15 32%
 2 Tập trung chú ý 5 11% 35 76% 6 13%
 3 Trả lời câu hỏi 4 9% 32 69% 10 22%
 4 Đặt tên mới cho chuyện 2 4% 24 52% 20 44%
 5 Tạo nhân vật để KCST 8 17% 28 61% 10 22%
 6 KCST diễn cảm 5 11% 25 54% 16 35%
 2/10 kể cũng phải có nội dung hay, hấp dẫn, phù hợp với trẻ, chính vì vậy mà tôi luôn 
phải tìm chọn những câu chuyện hay theo chủ điểm để kể mẫu cho trẻ nghe. 
Được nghe câu chuyện hay trẻ rất thích và có ý tưởng kể chuyện sáng tạo cho 
mình.
 Chủ điểm “Trường mầm non” tôi đã chọn truyện” Mai Mai đến trường” 
trẻ rất thích vì có nội dung gần gũi với trẻ giống như cuộc sống hiện tại của trẻ. 
Tuy nhiên, khi kể tôi không giới thiệu tên truyện để trẻ tự đặt tên cho câu 
chuyện cô kể, trẻ đã đặt tên cho câu chuyện là “ Bé Mai Mai đến trường”, “ Cô 
giáo của bạn Mai Mai”,... Trẻ đã sáng tạo kể các câu chuyện như “ Bé Bi đi 
học”, “ Cô giáo em”,...
 Chủ điểm “Gia đình” tôi đã chọn truyện “ Đi mua sắm” nội dung có mẹ và 
con đi chợ mua sắm, nội dung gần gũi với trẻ nên trẻ rất thích và chăm chú 
nghe. Kết quả 100% trẻ thích truyện.
 Ngoài việc lựa chọn truyện hay phù hợp tôi còn có thể nghĩ và sáng tác 
truyện để phù hợp với mục đích yêu cầu chủ điểm như chủ đểm thế giới thực vật 
tôi đã sáng tác truyện về quả. Khi được nghe truyện các con lớp tôi còn reo lên “ 
hay quá” và đặt tên cho câu chuyện là “ Chôm Chôm dũng cảm”, “ Bạn Cam 
biết lỗi” “ Tên Chuột gây sự”,... Kết quả 100% trẻ thích truyện.
 Chủ điểm thế giới động vật tôi đã sáng tác một câu chuyện nhỏ có chó sói 
và 3 anh em dê đó là truyện “BA ANH EM DÊ VÀ CON CHÓ SÓI”. Ở một 
khu rừng kia, có ba anh em dê sống trong căn nhà nhỏ trên núi cao. Hàng ngày 
ba anh em dê đi ăn cỏ phải qua một cây cầu nhỏ. Một hôm, em dê út đi ăn cỏ, 
vừa bước chân lên cầu bỗng có tiếng quát:
 - Đứa nào bước lên cầu của ta? Cút ngay kẻo ta sẽ ăn thịt mi!
 Em dê út sợ quá chạy vội về, vừa chạy vừa khóc. Nghe thấy tiếng khóc 
anh dê hai hỏi:
 - Út ơi, làm sao em khóc? 
 - Ôi anh Hai! làm sao mà em không khóc được cơ chứ, em muốn đi ăn cỏ 
nhưng ở trên cầu kia có con chó sói răng nhọn hoắt nó ăn thịt em mất!
 - Đừng sợ, hãy đi với anh!
 Anh dê Hai dắt em dê út đi. Hai anh em vừa bước chân lên cầu, nghe có 
tiếng bước chân con chó sói nhảy ra quát:
 - Đứa nào bước lên cầu của ta? Cút ngay kẻo ta sẽ ăn thịt mi!
 - Ta là anh dê hai, con sói kia hãy lại đây ta húc cho mi vỡ bụng!
 Nói rồi anh Hai xông vào húc con chó sói, nhưng sừng của anh dê hai còn 
bé chưa nhọn nên không húc được. Hai anh em dê sợ quá vừa chạy vội về nhà 
vừa khóc. Anh dê cả ghe thấy tiếng khóc liền hỏi:
 - Làm sao các em lại khóc?
 Dê út kể lại cho anh cả nghe, anh dê cả nói:
 - Đừng sợ hãy đi với anh.
 Ba anh em dê dắt nhau đi ăn cỏ. Vừa bước chân lên cầu, con chó sói nghe 
thấy tiếng bước chân nó liền nhẩy ra quát:
 - Đứa nào bước lên cầu của ta? Cút ngay kẻo ta sẽ ăn thịt mi!
 4/10 phong phú cho việc lựa chọn những hình ảnh, âm thanh, phim sống động... có 
nội dung, tư liệu bài giảng sinh động giới thiệu cho trẻ mang tính chân thực 
để xây dựng giáo án điện tử.
 - Việc tìm kiếm thông tin, hình ảnh trên Internet để xây dựng bài giảng 
là rất cần thiết và bổ ích, giúp giáo viên giảng dạy đạt hiệu quả cao và giúp 
trẻ tiếp thu kiến thức dễ dàng, tiết kiệm thời gian làm đồ dùng đồ chơi của 
giáo viên, ngoài ra những tư liệu ấy còn là cơ sở phát triển và nhân rộng. 
 - Tôi đã sử dụng những video có nhạc nền hoặc được lồng tiếng sẵn ở 
nhà cho các con xem tùy từng tình huống cụ thể khi nào thì giáo viên trực tiếp 
kể cho trẻ nghe, khi nào thì cho trẻ nghe âm thanh lồng tiếng sẵn. 100% trẻ 
đều thích thú.
 5. Biện pháp 5: Kể chuyện diễn cảm (Đây là biện pháp cực kỳ quan trọng).
 Trẻ mẫu giáo 5 tuổi - độ tuổi ngôn ngữ rất phát triển, trẻ có khả năng sử 
dụng câu thành thạo và có sắc thái biểu cảm,... những bài thơ, câu chuyện hay rí 
rỏm kích thích tính tò mò ham hiểu biết của trẻ. Muốn câu chuyện thực sự đi 
vào lòng trẻ thì không những truyện phải có nội dung hay, giới thiệu hấp dẫn mà 
giọng kể của cô cố vai trò cực kỳ quan trọng. Chỉ có giọng kể của cô tốt thể hiện 
đúng sắc thái biểu cảm thì nội dung truyện mới toát lên được hết những ý hay, 
trẻ mới tiếp nhận được cách kể của cô và thổi vào trẻ một cách kể sáng tạo hấp dẫn.
 Ví dụ 1: Câu nói của người già giọng chậm dãi và ấm khi kể lại kể với 
giọng lanh lảnh, còn nhân vật độc ác lại thể hiện với giọng nhẹ nhàng tình cảm 
thì sẽ không toát lên được nội dung của câu chuyện vì vậy không những các 
cháu mà người nghe cũng thấy chán.
 Do vậy việc chuẩn bị cho mình mỗi khi dạy trẻ kể chuyện là tôi phải luyện 
tập để có giọng kể tốt phù hợp và đúng tính cách nhân vật, ngắt nghỉ câu, thể 
hiện sắc thái biểu cảm đúng nhân vật mà mình kể, xác định đúng các giọng nhân 
vật, giọng dẫn chuyện,... kết hợp ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ để bổ trợ cho giọng 
kể. Có như vậy nội dung câu chuyện mới thể hiện hết cái hay. Qua đó mà trẻ 
tiếp nhận cách kể của cô truyền tải vào cách kể cho chính bản thân mình cách kể 
tự nhiên hấp dẫn người nghe và kể rất sáng tạo.
 Ví dụ 2: Truyện “ Ba anh em dê và con chó sói” đã trích ở trên thì trước 
khi kể bao giờ tôi cũng phải nghiên cứu để hiểu, thuộc truyện và xác định giọng 
nhân vật rõ ràng:
 - Giọng dẫn chuyện: nhẹ nhàng, ngắt, nghỉ, kể lúc nhanh lúc chậm phù 
hợp với nội dung câu chuyện.
 - Giọng sói: quát dê út với giọng to, hách dịch, dữ dằn.
 - Giọng em dê út: nhỏ, run sợ, khóc làm nũng anh.
 - Giọng anh dê hai: Láu táu
 - Giọng anh dê cả: ấm và chững chạc hơn đối với các em nhưng khi quát 
sói thì lại quát với giọng to đanh thể hiện sự dũng cảm không sợ gì sói.
 Ngoài việc xác định giọng nhân vật rõ ràng tôi còn xác định giọng dẫn 
chuyện và khi thể hiện xuyên suốt câu chuyện tôi còn phải thay đổi sắc thái 
biểu cảm cho phù hợp vơi nội dung hình ảnh diễn ra trong từng đoạn truyện và 
kết hợp với ánh mắt cử chỉ điệu bộ, ngắt nghỉ dài ngắn, trường độ, cao độ,... để 
 6/10 Ngoài ra, tôi còn làm một số loại rối khác nữa như rối dẹt lò so, rối dẹt di 
chuyển trên tranh, rối ngón,... thể loại phong phú, kích thước phù hợp, màu sắc 
đẹp, hấp dẫn để tôi có thể lựa chọn dạy trẻ phù hợp với từng bài, từng chủ điểm.
 Không những đồ dùng đồ chơi của cô hấp dẫn mà đồ dùng của trẻ cũng 
phải hấp dẫn để trẻ tự mình sử dụng những nhân vật trẻ thích. Nhờ có đồ dùng 
đồ chơi đẹp trẻ thích mà kích thích trẻ kể chuyện sáng tạo, trẻ muốn được kể thì 
cô giáo mới có cơ hội dạy cho trẻ cách kể hấp dẫn đúng ngôn ngữ biểu cảm, từ 
đó vốn từ của trẻ tăng nhanh và cách sử dụng câu của trẻ tốt hơn, ngôn ngữ trẻ 
phát triển, nâng cao hơn là ngôn ngữ nghệ thuật. Hiểu được ý nghĩa vai trò của 
đồ dùng đồ chơi đối với trẻ mà khi dạy trẻ kể chuyện sáng tạo tôi làm rất nhiều 
đồ dùng đồ chơi cho trẻ. 
 Ví dụ: Chủ điểm thế giới thực vật: Dạy trẻ kể chuyện sáng tạo về quả, tôi 
và trẻ đã cùng làm rất nhiều loại quả khác nhau có cách điệu đầu, tóc, mắt, mũi, 
chân, tay, có cử động để cho trẻ kể chuyện.
 Chủ điểm thế giới động vật: Ngoài các con vật bằng nhựa tôi và trẻ cùng 
làm các con vật bằng các nguyên vật liệu khác nhau như gấp giấy: voi, thỏ, khỉ , 
chim, hổ,
 Các con vật làm từ ống mút sữa được trang trí thêm mút xốp hoặc len như 
mèo, lợn, chó, gà,
 Các con vật làm từ hộp keo dán kết hợp với mút xốp như châu chấu, 
chuồn chuồn, bướm,...
 7. Biện pháp 7: Kết hợp với phụ huynh
 Thống nhất giữa giáo dục trong nhà trường với giáo dục tại gia đình tránh 
việc “ Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Ở lớp trẻ được kể chuyện sáng tạo với 
đồ vật trẻ rất thích, nhiều khi về nhà trẻ cũng lấy đồ dùng trong nhà ra để kể và 
kể rất say sưa nhưng có khi phụ huynh không hiểu lại đánh mắng trẻ vì tội “bày 
bừa ra nhà” thế là trẻ bị đánh mắng oan. Do vậy các cô giáo cần kết hợp với phụ 
huynh để phụ huynh tạo điều kiện cho trẻ được sử dụng đồ dùng đồ chơi, 
khuyến khích trẻ kể chuyện. Từ đó phụ huynh không những không cấm đoán mà 
còn khuyến khích, động viên trẻ kể chuyện với đồ vật ở nhà, vì vậy mà chất 
lượng học sinh lớp tôi biết kể chuyện sáng tạo đã nâng lên rõ rệt.
 Qua biện pháp trên tôi thấy 100% trẻ trong lớp càng hứng thú tích cực hơn 
khi tham gia vào kể chuyện sáng tạo, giúp cho ngôn ngữ của trẻ ngày càng phát 
triển phong phú hơn.
IV. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm
 1. Về giáo viên:
 - Nắm chắc mục đích yêu cầu, nội dung, phương pháp, có hình thức tổ 
chức phù hợp hấp dẫn, phát huy được các hoạt động chủ đạo của trẻ “ chơi mà 
học, học bằng chơi”, biết làm đồ dùng đồ chơi, ứng dụng CNTT vào khi dạy trẻ 
kể chuyện sáng tạo. 
 2. Về phía phụ huynh:
 Trẻ không những kể chuyện ở lớp mà còn kể ở nhà, các cháu kể rất diễn 
cảm và sáng tạo cho ông bà, bố mẹ nghe. Gia đình rất ngạc nhiên, phấn khởi và 
tin tưởng ở các cô giáo vì vậy cho con đi học đều.
 8/10

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_tre_4_5_tuoi_nan.doc